40 phát minh vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại
Đăng 7 năm trướcDanh sách những phát minh làm nền tảng cho rất nhiều cải tiến quan trọng trong lịch sử loài người.
Lửa (năm 400.000 TCN)
Việc biết cách tạo ra lửa là một phát minh vào buổi đầu của thời kỳ đồ Đá được khẳng định qua một vài bằng chứng chứng minh lửa xuất hiện từ rất sớm - cách đây hàng trăm nghìn năm. Mặc dù không biết chắc chắn thời gian nào thì con người bắt đầu biết tạo ra lửa nhưng hầu hết các nghiên cứu đều cho rằng nó có thể cách đây khoảng 200.000 đến 600.000 năm.
Ngôn ngữ (năm 100.000 TCN)
Ngôn ngữ đúng ngữ nghĩa, ngữ âm lần đầu tiên được sử dụng vào khoảng năm 100.000 TCN. Sự xuất hiện của ngôn ngữ "chuẩn" như vậy đã khiến cho việc lưu truyền kiến thức từ thế hệ này sang thế hệ khác dễ dàng hơn và góp phần thúc đấy sự lan rộng của quá trình đổi mới.
Thương mại và chuyên môn hóa (17.000 TCN)
Trong chương 2 của cuốn The Rational Optimist (Người lạc quan thuần lý), tác giả Matt Ridley đã tập trung nhấn mạnh tới tầm quan trọng của sự chuyên môn hóa và thương mại đối với sự phát triển của loài người. Matt đã đưa ra ví dụ về hai con người đầu tiên là Oz và Adam. Oz rất giỏi về bắt cá, còn Adam lại thành thạo trong việc chế tạo ra những lưỡi câu sắc bét. Chính vì điều này mà Oz và Adam đã quyết định trao đổi cho nhau để tiết kiệm thời gian cũng như tăng hiệu quả làm việc.
Lần đầu tiên con người tiến hành hoạt động trao đổi đó là ở New Guinea vào khoảng năm 17.000 TCN. Thời điểm này, người dân địa phương sẽ trao đổi đá obsidian - một loại đá được hình thành từ dung nham đã phun trào của núi lửa, cũng được biết đến với tên gọi đá vỏ chai, thường được sử dụng để làm mũi tên săn bắn - để lấy những loại hàng hóa thiết yếu khác. Vào khoảng năm 3.000 TCN, các con đường thương mại giữa Châu Á và Trung Đông đã bắt đầu được hình thành, lạc đà được thuần hóa làm phương tiện chuyên chở và các đoàn đi buôn cũng xuất hiện. Họ mua hàng hóa, dự trữ, kiểm kê và đây được xem là những doanh nhân đầu tiên trên thế giới. Mục tiêu của lớp người này là quản lý đất đai, hàng hóa và vốn sao cho tổng giá trị thu được lớn hơn tổng giá trị của các yếu tố đầu vào.
Nông nghiệp (15.000 TCN)
Khoảng năm 15.000 TCN (cách đây khoảng 17.000 năm), quá trình thuần hóa động vật bắt đầu diễn ra và sau đó, năm 10.000 TCN, hoạt động thuần giống thực vật cũng được con người chú ý đến. Quá trình này đóng vai trò cốt lõi cho sự tiến bộ của loài người. Thay vì là loài du mục – phải liên tục di chuyển xung quanh, tìm kiếm địa điểm mới để săn bắt và thu thập thức ăn thì con người đã có thể dừng lại ở một nơi, hình thành nên các cộng đồng người và xây dựng thành phố (cơ sở cho các nền văn minh) – tạo tiền đề cho sự phát triển của tri thức nhân loại.
Vào khoảng năm 12.000 TCN, quá trình bảo quản thực phẩm cũng được các nền văn minh ở Trung Đông áp dụng nhằm kéo dài thời gian sử dụng của thực phẩm bằng cách phơi chúng dưới ánh nắng Mặt Trời. Bằng cách bảo quản như vậy, thức ăn cũng sẽ không bị hỏng và có thể dự trữ để sử dụng nhiều lần. Con người cũng có thể dành thời gian và năng lượng để làm những việc khác ngoài việc chỉ đơn giản là làm nông, săn bắt, thu thập - tạo ra một sự tiến bộ lớn trong khả năng của chúng ta về chuyên môn hóa và thương mại. Chuyên môn hóa và thương mại càng được thúc đẩy sẽ mang đến một sự gia tăng đáng kể trong sự đa dạng của các công cụ và tạo ra nhiều thực phẩm hơn nữa.
Tàu (4.000 TCN)
Khoảng năm 4.000 TCN, người Ai Cập cổ đại đã biết làm những chiếc thuyền buồm bằng gỗ. Sau đó, khoảng năm 1200 TCN, người Phoenician (nền văn minh cổ đại nằm ở miền bắc khu vực Cannan cổ đại và trung tâm nằm dọc vùng eo biển Liban, Syria và bắc Israel ngày nay) và Hy Lạp đã bắt đầu làm được những chiếc thuyền lớn hơn. Việc phát minh ra thuyền buồm là bước tiến khổng lồ của nhân loại bởi vì đây được xem là phương tiện di chuyển đầu tiên tạo cơ sở cho hoạt động thương mại diễn ra giữa các khu vực khác nhau trên thế giới.
Bánh xe (3.400 TCN)
Bước tiến có ý nghĩa tiếp theo trong lịch sử cải tiến thế giới đó chính là sự ra đời của bánh xe, được các nhà khoa học cho rằng có nguồn gốc vào khoảng giữa năm 3.300 đến 3.500 TCN. Do chính những khó khăn trong quá trình sử dụng các khúc gỗ để vận chuyển vật nặng mà con người đã nghĩ ra giải pháp kết hợp bánh xe với các thanh ngang đặt bên dưới có tác dụng ngăn bánh trượt ra ngoài.
Tiền (3.000 TCN)
Vào khoảng năm 3.000 TCN, người Sumer (người đầu tiên đến định cư ở phía Nam Lưỡng Hà và đóng vai trò quan trọng cho sự hình thành của nền văn minh Lưỡng Hà) đã bắt đầu sử dụng tiền (vàng và bạc thỏi trong tất cả các giao dịch quan trọng) bao gồm hoạt động thương mại và trao đổi hàng hóa, thay thế cho hình thức đối chác truyền thống.
Sắt (3.000 TCN)
Nghề luyện kim bắt đầu xuất hiện vào khoảng năm 4.400 TCN khi các nền văn minh biết sử dụng đồng đỏ và bạc, sau đó, kết hợp đồng đỏ và thiếc để tạo ra đồng thau (vật liệu quan trọng để chế tạo công cụ và vũ khí - đây còn gọi là thời đại đồ đồng). Các nhà khoa học cũng đã tìm ra được một số bằng chứng mạnh mẽ cho thấy khoảng năm 3.000 TCN, con người cũng đã tìm ra sắt và kim loại này đã góp phần đưa lịch sử loài người bước sang một thời đại mới - thời đại đồ sắt.
Ngôn ngữ viết (299 TCN)
Mặc dù ngôn ngữ đã bắt đầu được sử dụng vào khoảng 10 nghìn năm trước, tuy nhiên, việc phát minh ra ngôn ngữ viết đóng vai trò vô cùng quan trọng. Bởi vì, sự xuất hiện của nó rất ý nghĩa trong việc lưu trữ và tính toán các con số. Một trong những hệ thống chữ viết đầu tiên là chữ hình nêm được người Sumer sử dụng vào khoảng năm 2.900 TCN để ghi chép các thư giao dịch thương mại, hóa đơn, luật pháp, thành ca, lời cầu nguyện, các câu chuyện...
Hệ thống luật pháp (1.780 TCN)
Vào năm 1.780 TCN, Hammurabi - vị vua thứ 6 của Babylon đã ban hành một bộ luật thành văn hoàn chỉnh và áp dụng thống nhất cho toàn khu vực Lưỡng Hà mang tên của mình - bộ luật Hammurabi. Trong thời đại lúc bấy giờ thì luật pháp trong bộ luật Hammurabi đã giúp cân bằng và chỉnh đốn xã hội, đóng vai trò to lớn trong việc duy trì sự thịnh vượng của đế chế Babylon. Egyptian Book of the Dead (Sách của người chết), The Ten Commandments (10 điều răn), Twelve Tables of Rome (Bộ luật 12 bảng), Book of Leviticus (Cựu ước sách) là những hệ thống luật pháp đầu tiên cho phép xã hội giải quyết tranh chấp với chi phí thấp hơn và tạo ra sự nhận thức về ý nghĩa của các tiêu chuẩn. Đồng thời, chúng cũng góp phần tạo nên sự tiến bộ đáng kinh ngạc trong việc kiểm soát các hoạt động thương mại trong một môi trường tự do và không bị giới hạn bởi các rào cản.
Bảng chữ cái Alphabet (1.050 TCN)
Người Phoenician được ghi nhận là những người đầu tiên thực sự phát triển thành công bảng chữ cái alphabet (bao gồm cả nguyên âm và phụ âm) - một tập hợp các biểu tượng đại diện cho âm thanh mà có thể được kết hợp để đại diện cho ngôn ngữ nói. Về sau, rất nhiều hệ thống bảng chữ cái hiện đại được cải tiến dựa trên cơ sở của bảng chữ cái này.
Thép (650 TCN)
Thép là một loại hợp chất - hợp kim được tạo thành từ phản ứng giữa sắt và carbon - đồng thời cũng là một trong những vật liệu cứng nhất hiện nay. Quá trình sản xuất thép sớm nhất được biết đến thông qua một đồ dùng bằng sắt được khai quật ở Tây Á có niên đại khoảng 4.000 năm tuổi. Quân đội Spartans cũng đã từng sử dụng thép rộng rãi trong khoảng năm 650 TCN, tiếp sau đó là người Trung Quốc (400 TCN) và người La Mã.
Thủy lực (200 TCN)
Thủy lực lần đầu tiên được người dân ở khu vực Fertile Crescen (một khu vực trải dài qua Ai Cập, Israel, Thổ Nhĩ Kỳ và Iraq ngày nay)sử dụng vào năm 200 TCN. Họ đã áp dụng các nguyên lý cơ bản để tạo ra các máy móc dùng sức nước, thuyền buồm, kênh tưới và hệ thống cấp nước...
Giấy (105)
Người đầu tiên làm ra giấy là ông Sai Lun, người Trung Quốc. Vào năm 105, ông đã nghĩ ra phương thức làm giấy từ những sợi bên trong của vỏ cây dâu. Người Trung Quốc đã học cách nghiền nát vỏ cây và nước để tách lấy sợi, sau đó, đổ hỗn hợp này ra những khay to trên đó có đặt những ống tre nhỏ, khi nước chảy đi hết, người ta mang các tấm giấy mỏng đi phơi khô trên bề mặt bằng phẳng. Sau này để nâng cao chất lượng của giấy có người đã nghĩ ra cách cho thêm tinh bột vào.
Movable Type (1040)
Movable Type là một hệ thống sắp chữ rất độc đáo mà người Trung Quốc tuyên bố rằng họ là người đầu tiên nghĩ ra công nghệ này. Người ta nhập (type) các chữ cái vào thiết bị và sau đó in các trang văn bản ra giấy (move). Phương pháp này phá vỡ kiểu phân phối thông tin chủ đạo thời đó: các nhà truyền giáo chép tay các thông tin hoặc khắc lên gỗ rồi in ra giấy. Năm 1455, Gutenberg đã sử dụng Movable Type cùng người đồng hương giàu có Johannes Fust. Tuy nhiên, chi phí duy trì đã vượt ra khỏi tầm kiểm soát và Gutenberg sớm bị vỡ nợ.
Kính hiển vi (1592)
Kính hiển vi là một phát minh rất vĩ đại của nhân loại, tạo tiền đề để có những đột phá ấn tượng trong việc nhận thức về công nghệ nano và hiểu biết sâu hơn về cấu trúc của phân tử. Ba người thợ tạo kính là Hans Lippershey (người đã phát triển các kính viễn vọng trước đó), Zacharias Janssen, cùng với cha của họ là Hans Janssen là những người đầu tiên xây dựng nên những kính hiển vi sơ khai. Năm 1625, Giovanni Faber là người xây dựng một kính hiển vi hoàn chỉnh đặt tên là Galileo Galilei.
Điện (1600)
Năm 600 TCN tại Hy Lạp, nhà toán học lừng danh Thalès de Milet đã tiến hành khảo cứu mọi sự vật và hiện tượng xung quanh, nhận thấy rằng khi xát mạnh miếng hổ phách thì miếng này sẽ hút được các vụn gỗ. Trải qua 22 thế kỷ tới năm 1600, Sir William Gilbert là người đầu tiên khảo cứu về điện học và từ học. Gilbert nhớ lại các điều nhận xét của Thalès khi trước. Ông tự hỏi các chất khác với hổ phách liệu có tính chất khi xát mạnh, hút các vật nhẹ như hổ phách không? Gilbert liền thử với nhiều chất liệu và tìm thấy lưu huỳnh, thủy tinh, si có tính chất tương tự. Ông đặt tên cho sức hút bí ẩn này là điện lực (électricité), suy từ chữ Hy Lạp Elektra là hổ phách.
Kính thiên văn (1608)
400 năm trước (1608 - 2008), Hans Lippershey, một nhà chế tạo kính mắt người Hà Lan tình cờ phát hiện ra nguyên lý phóng đại khi kết hợp các thấu kính, ông đã chế tạo ra ống kính nhìn xa tiền thân của kính thiên văn quang học. Đây chính là một cột mốc quan trọng trong lịch sử thiên văn học vì chỉ một năm sau đó (1609), nhà bác học vĩ đại Galieo đã sử dụng chiếc kính thiên văn đầu tiên của nhân loại quan sát các thiên thể, tạo ra một bước ngoặt của loài người về thế giới quan.
Động cơ (1712)
Thomas Newcomen (1663 -1729) một thợ rèn tại Darthmouth, Anh đã chế tạo ra động cơ hơi nước đầu tiên. Phát minh của Thomas Newcomen bắt đầu từ mong muốn bơm nước ra khỏi các hầm mỏ khai thác than thời bấy giờ do càng đào xuống sâu trong lòng đất thì nước tràn vào các hầm mỏ càng nhiều. Đến năm 1764, James Watt (1736 - 1819) một người chế tạo dụng cụ cơ khí ở Glasgow được yêu cầu sửa một mô hình (chính là cỗ máy hơi nước đầu tiên của Newcomen) đã cải tiến để chế tạo ra những động cơ hơi nước có công suất cao hơn, hiệu quả hơn, dễ vận chuyển hơn so với bất kỳ thứ gì từng có trước đó.
Đèn điện (1802)
Thí nghiệm năm 1802 của nhà khoa học người Anh Humphry Davy có thể coi là khởi đầu cho những phát minh về bóng đèn sợi đốt sau này. Davy cho một dòng điện chạy qua một sợi Platin (Pt) rất mảnh, sợi Platin trở nên rất nóng và phát sáng. Tuy sợi Platin tạo ra ánh sáng khá yếu và cũng không sáng được lâu, nhưng thí nghiệm của Davy đã tạo tiền đề, là cảm hứng để nhiều nhà phát minh tiếp tục nghiên cứu và phát triển ý tưởng này như Thomas Edison hay Friedrich Just và Franjo Hanaman.
Điện báo (1809)
Điện báo – Telegraph là hệ thống thông tin liên lạc bằng điện tín, đánh dấu sự phát triển đầu tiên của hệ thống truyền thông điện. Trên thực tế, ý tưởng về điện báo được khởi xướng đầu tiên bởi Samuel Soemmering vào năm 1809 nhưng phải đến năm 1837 thì Samuel Morse mới phát minh ra mã nhị phân Morse có chiều dài thay đổi bằng cách sử dụng chuỗi các dấu chấm (.) và dấu gạch (-) để biểu diễn cho các mẫu tự alphabet – được xem là cơ sở cho sự phát triển của hệ thống truyền thông số bằng điện – truyền thông số hiện đại lúc bấy giờ.
Nam châm điện (1825)
Nguồn gốc của nam châm điện được phát minh lần đầu tiên vào năm 1825 do nhà điện học William Sturgeon người Anh (1783-1850). Nam châm điện do Sturgeon phát minh là một lõi sắt non có dạng hình móng ngựa và có một số vòng dây điện cuốn xung quanh. Nếu có dòng điện sinh ra bởi một pin nhỏ chạy qua đó thì sẽ làm cho lõi sắt bị từ hóa và cảm ứng từ sinh ra đủ mạnh có thể hút lên được một hộp sắt nặng khoảng 7 ounce. Nếu chúng ta ngắt dòng điện thì từ trường của lõi sẽ biến mất theo.
Dầu mỏ (1859)
Ở những ngày đầu tiên trong lịch sử của ngành dầu lửa, những người khai thác dầu ở bang Pennsylvania của Mỹ dùng các thùng đựng rượu whiskey để đựng dầu, sau khi họ phát hiện ra những giếng dầu đầu tiên. Trước khi hoạt động khoan dầu chính thức bắt đầu ở Mỹ vào năm 1859, dầu thô được thấm hút bằng những miếng giẻ, sau đó vắt ra và sử dụng như một loại thuốc để chữa mọi loại bệnh từ đau đầu tới ù tai. Ban đầu, người Mỹ gọi dầu thô là "dầu đá" (rock oil) để phân biệt với dầu thực vật và mỡ động vật. Do nhu cầu sử dụng dầu thô tăng mạnh cho thắp sáng trong lúc mỡ cá voi trở nên khan hiếm, các giàn khoan dầu mọc khắp khu vực có dầu ở bang Pennsylvania trong những năm 1860.
Điện thoại (1860)
Ý tưởng về điện thoại đầu tiên được Johann Philipp Reis nghĩ ra vào năm 1860 có giới thiệu về một thiết bị điện từ có khả năng chuyển tiếp các âm thanh có thể hiểu được. Vài năm sau đó, cuộc gọi đầu tiên được thực hiện giữa nhà phát minh Alexander Graham Bell và người trợ lí của ông ngồi cách đó 4,5 m vào ngày 10/3/1876 với mẩu hội thoại ngắn ngủi: "Watson, anh đến đây nhé, tôi có việc cần!" là sự kiện lịch sử đánh dấu chính thức sự ra đời của chiếc điện thoại liên lạc.
Đèn điện tử chân không (1883)
Năm 1893, Thomas Edison lần đầu tiên phát hiện ra rằng dòng điện có thể di chuyển trong chân không hoặc khí gas mà không cần dây. 10 năm sau đó, Lee De Forest đã phát minh ra bóng đèn hai cực (Audion Tube) – một phát minh đơn giản nhưng rất quan trọng trong thế kỷ 20 mà vào thời đó, nhiều người trong Công ty Vô tuyến Điện báo Hoa Kỳ cho là vô dụng. Nhiều năm sau đó, ông đã sáng chế ra đèn khuyếch đại (Amplyfing Tube), thành lập công ty De Forest Radio Telephone (Công Ty Vô Tuyến Điện Thoại De Forest) để chế tạo bóng đèn khuếch đại và khai thác vô tuyến truyền thanh. Chính nỗ lực không ngừng này đã giúp ông nhận được sự chú ý của rất hiều người. Các nhà báo đã đến thăm viếng phòng thí nghiệm của ông và phỏng vấn nhà bác học về tương lai của vô tuyến điện thoại.
Chất bán dẫn (1896)
Vào năm 1896, chất bán dẫn đầu tiên đã được phát hiện và được Jagadish Chandra Bose sử dụng với mục đích thương mại. Đây là những chất có độ dẫn điện nằm giữa chất cách điện (điện môi) và chất dẫn điện.
Penicillin (1896)
Năm 1896, Ernest Duchesne đã từng sử dụng nấm mốc Penicillium để chữa trị bệnh thương hàn ở chuột lang – một thí nghiệm cho thấy ông hiểu được các khả năng của penicillin. Tuy nhiên, thời đó, các nhà khoa học chưa xem xét một cách nghiêm túc về công trình này nên Duchesne chưa bao giờ nhận được bằng sáng chế. Mãi cho tới năm 1928, Alexander Fleming – một nhà vi khuẩn học tại bệnh viện Saint Mary ở London, trong một lần kiểm tra các đĩa nuôi cấy chứa vi khuẩn đã phát hiện ra những mảng vi khuẩn nằm xung quanh tảng nấm bị phá hủy. 10 năm sau đó, Howara Walter Florey - nhà giải phẫu bệnh học người Australia và Ernst Boris Chain đã nghiên cứu các đặc điểm hóa sinh của lysozym, loại enzym tiêu diệt các vi khuẩn mà Flemming phát hiện ra, đồng thời tiến hành tìm hiểu sâu hơn về Penicillin và những khả năng mà chất kháng khuẩn này có thể mang đến cho con người.
Radio (1897)
Guglielmo Marconi, một nhà phát minh người Ý đã chứng minh tính khả thi của việc truyền thông tin vô tuyến trong không gian. Ông đã gửi và nhận thành công những tín hiệu radio đầu tiên vào năm 1895. Và vào những năm đầu thế kỷ 20, Marconi bắt đầu đầu tư vào một ý tưởng truyền tín hiệu vượt Đại Tây Dương nhằm cạnh tranh với loại hình truyền tín hiệu bằng dây cáp. Năm 1901, ông đã truyền đi tín hiệu không dây đầu tiên qua đại dương từ Poldhu, Cornwall - một hạt tại miền Tây Nam Vương quốc Anh đến đồi Signal Hill tại St John's, Newfoundladn - giờ đây là một quần đảo thuộc sở hữu của Canada. Khoảng cách giữa 2 điểm thu và nhận vào khoảng 3500 km. Tín hiệu phản hồi mà Marconi nhận được là 3 âm click - tương ứng với ký tự S theo mã Morse. Năm 1909, Marconi và Karl Fedinand Braun cùng nhận được giải Nobel vật lý về những "đóng góp đáng ghi nhận vào sự phát triển của công nghệ truyền tin không dây".
Electron (1897)
J.J. Thompson chính là người đã phát hiện và chứng minh được sự tồn tại của electron mặc dù ông chưa thể nhìn thấy hay tách được chúng ra. Electron là hạt hạ nguyên tử đầu tiên được phát hiện và được xác nhận là loại hạt đầu tiên cấu tạo nên vật chất nhỏ hơn cả nguyên tử. Khám phá này đã cung cấp cho chúng ta bằng chứng về một đơn vị mang điện cơ bản và miêu tả về nó. Những thí nghiệm và phát hiện của J.J. Thompson đã mở ra một lĩnh vực khoa học mới – Vật lý hạt.
Vật lý lượng tử (1900)
Vật lý lượng tử ra đời vào năm 1900 khi các nhà khoa học xuất sắc nhất đang tập trung sự chú ý vào một "vấn đề nóng" trên nhiều phương diện, đó là việc giải thích sự phân bổ theo bước sóng của bức xạ được phát ra từ một vật nung nóng. Max Planck đề xuất giả thuyết về tính gián đoạn của bức xạ điện từ phát ra từ các vật – giả thuyết lượng tử - để giải thích những kết quả thực nghiệm về bức xạ của các vật đen. Sự xuất hiện của vật lý học lượng tử và thuyết tương đối là một cuộc cách mạng của vật lý học vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 và là cơ sở khoa học của nhiều lĩnh vực công nghệ cao hiện nay như công nghệ điện tử, vi điện tử, công nghệ viễn thông, công nghệ quang tử, công nghệ tự động hóa, công nghệ thông tin...
Máy bay (1903)
Chiếc máy bay đầu tiên trên thế giới có thể thực hiện một chuyến bay thành công là phát minh của hai anh em Orville và Wilbur Wright. Trong chuyến bay đầu tiên vào ngày 17/12/1903, chiếc máy bay của anh em nhà Wright đã bay được 40 m trong 12 giây trên không trung và trở thành chiếc máy bay đầu tiên trong lịch sử cất cánh thành công, được đặt tên là Flyer I. Flyer có sải cánh dài khoảng 12m và nặng hơn 300kg, đây là một chiếc máy bay có hai tầng cánh và người điều khiển sẽ phải nằm trên tầng cánh dưới. Chiếc máy bay được trang bị động cơ xăng 12 mã lực.
Tivi (1926)
John Logie Baird - nhà phát minh người Scotland được xem là người đặt một dấu mốc vô cùng quan trọng trong lịch sử phát triển của công nghệ truyền hình. Vào ngày 27/01/1926, chương trình truyền hình lần đầu tiên được phát sóng là một màn múa rối do chính Baird thực hiện với hai đầu quay rối bằng cao su, được quay lại trước một loạt các camera và sau đó, gửi hình ảnh đến một màn hình gần đó. Năm 1928, Baird lần đầu tiên cho phát sóng một chương trình vô tuyến ra nước ngoài, từ London tới New York. Đây được xem là chương trình phát sóng truyền hình màu đầu tiên trên thế giới.
Transistor (1947)
Transistor là một loại linh kiện bán dẫn chủ động, thường được sử dụng như một phần tử khuyếch đại hoặc một khóa điện tử. Transistor xuất hiện khắp nơi trong đời sống hàng ngày, ẩn trong các thiết bị hiện đại, hành xử như tế bào não kiểm soát từ những hệ thống to lớn như điều khiển phi thuyền bay vào vũ trụ, xác định mục tiêu cho tên lửa quân sự đến những chiếc máy tính, điện thoại di động và lò vi ba trong nhà bếp. Vào ngày 16/12/1947 John Bardeen, William Bradford Shockley và Walter Houser Brattain đã sáng chế thành công mẫu Transistor đầu tiên tại Bell Labs và Sony là công ty đầu tiên ứng dụng sáng chế transistor này vào lĩnh vực thương mại.
DNA (1953)
Vào năm 1953, James Watson và Francis Crick đã phát hiện ra DNA trong khi đang làm việc tại Đại học Cambridge. Bộ đôi đã tìm ra một thứ gần đúng như những điều họ nói: cấu trúc xoắn kép nổi tiếng của ADN, một thành tựu sẽ mở đường cho vô số những tiến bộ sinh học sau này, giải quyết một bí ẩn đã làm đau đầu các nhà khoa học trong nhiều thập kỷ. Thậm chí, Francis Crick còn bước vào quán rượu Eagle và tuyên bố rằng "Chúng tôi đã tìm thấy bí mật của sự sống".
Vi mạch (Integrated Circuit, hay còn gọi là IC – 1959)
Vi mạch là các mạch điện chứa các linh kiện bán dẫn và linh kiện điện tử thụ động (như điện trở) được kết nối với nhau, kích thước cỡ micromet (hoặc nhỏ hơn) được chế tạo bởi công nghệ silicon cho lĩnh vực điện tử học. Vào 12/09/1958, Jack Killby đã chế tạo thành công IC dao động với 5 linh kiện đơn giản trên một vật liệu giống nhau gọi là "chip". Phát minh này không chỉ mang lại cho Killbly bằng sáng chế của Texas Instrucment mà còn mang lại cho ông giải thưởng Nobel vật lý năm 2000.
Internet (1969)
Vào cuối những năm 60 Bộ Quốc Phòng Mỹ đã tài trợ cho một nhóm sinh viên từ nhiều trường Đại học và Viện nghiên cứu của Mỹ để tham gia chương trình nghiên cứu về một cách thức truyền thông mới. Kết quả nghiên cứu là sự ra đời của mạng ARPA (The Advanced Research Project Agency - tên của tổ chức tài trợ chi phí nghiên cứu cho chương trình này). Sau đó mạng này được các trường Đại học cùng nhau phát triển để trở thành một mạng chung cho các trường Đại học gọi là ARPAnet - "ông tổ" của Internet ngày nay. Ban đầu mạng này được các trường Đại học sử dụng sau đó Quân đội cũng bắt đầu tận dụng và cuối cùng Chính phủ Mỹ quyết định mở rộng việc sử dụng mạng cho mục đích thương mại và cộng đồng. Mạng Internet ngày nay đã trở thành một mạng liên kết các mạng máy tính nội bộ và các máy tính cá nhân trên khắp toàn cầu. Cho đến nay, mọi người đều công nhận rằng Internet là một trong những phát minh vĩ đại nhất của nhân loại trong thế kỷ XX và có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế thế giới.
Bộ vi xử lý (1971)
Intel bắt đầu phát triển vi xử lý từ năm 1969 theo dự án của nhà sản xuất máy tính Nhật Busicom. Kế hoạch ban đầu của Busicom là xây dựng 12 chip có khả năng tùy biến. Nhưng kỹ sư Ted Hoff của Intel đã hình thành ý tưởng về một thiết bị logic đa mục đích hoạt động hiệu quả hơn. Ban đầu, Busicom nắm giữ các quyền liên quan tới bộ vi xử lý đó và trả cho Intel 60.000 USD. Nhận thấy tiềm năng của "bộ não" này, Intel quyết định trả lại số tiền trên để đổi lấy quyền thiết kế chip. Ngày 15/11/71, họ giới thiệu 4004 ra thị trường thế giới với giá 200 USD. 4004 có tốc độ 108 KHz với 2.300 bóng bán dẫn.
Điện thoại di động (1973)
Ngày 3/4/1973, Tiến sĩ Martin Cooper của Motorola thực hiện cuộc gọi đầu tiên từ chiếc di động của mình. Tại thời điểm đó, ông đã đi dạo trên đại lộ New York City's Sixth Avenue và mang theo một thiết bị có trọng lượng gần 1 kg và không ai trong số những người đi đường nhận ra đó là một chiếc điện thoại di động. Sau này, thiết bị đó được công nhận là chiếc điện thoại di động đầu tiên trên thế giới, người ta gọi nó là Motorola DynaTAC.
Điện thoại thông minh – Smartphone (2007)
Năm 2007, Apple bắt đầu ra mắt chiếc điện thoại có màn hình cảm ứng đầu tiên và đây cũng được xem là công ty tiên phong sản xuất thiết bị di động có màn hình cảm ứng. Những thiết bị này được tích hợp GPS, la bàn, ghi âm giọng nói, camera, bản đồ và trình duyệt web có đi kèm cửa hàng ứng dụng, cho phép người dùng tải xuống các app yêu thích và dùng ngay trên máy. Hiện nay, smartphone đã trở thành phương tiện liên lạc được sử dụng rộng rãi với rất nhiều cải tiến hiện đại cả về kiểu dáng, tính năng và nhiều thứ khác.
Tính toán lượng tử - Quantum Computer (2011)
Tính toán lượng tử là một xu hướng công nghệ trong tương lai. Có lẽ khoảng hơn 10 năm nữa, các máy chủ, máy tính cá nhân, điện thoại di động thông minh và các thiết bị Internet of Things đều sẽ chứa ít nhất một thành phần hoạt động với qubit - đơn vị thông tin của tính toán lượng tử. Máy tính lượng tử của Google - mua từ công ty D-Wave System - vào thời điểm hiện tại, chỉ với số lượng qubit bị giới hạn trong bộ nhớ vẫn có thể chạy nhanh hơn laptop hiện nay khoảng 100 nghìn lần - cho một số tác vụ tính toán.
Theo Startup Guide